Chỉ còn ít ngày nữa là tới ngày thi tốt nghiệp THPT năm 2024. Hãy cùng Tiệc Ngon Hà Nội tìm hiểu Bài khấn thi cử đỗ đạt tại chùa và đền Ngọc Sơn dành cho các sĩ tử 2k6 nhé!
1. Bài khấn cầu thi cử đỗ đạt tại chùa
Con nam mô a di Đà Phật!
Con nam mô a di Đà Phật!
Con nam mô a di Đà Phật! (3 lạy)
Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. Kính nguyện Phật Thánh chứng tâm thiện thần bảo hộ.
Hôm nay là ngày ….. tháng ….. năm …..
Tín chủ con là ….
Hữu duyên hữu ngộ Thánh độ chỉ đường, mà hôm nay nhằm ngày…. tháng ……..năm …., đệ tử được đem thân về hầu đê đầu bái yết cửa …….. linh từ.
Con xin kêu cho… (nêu đầy đủ họ tên, phòng thi, số báo danh) được đỗ đạt trong kỳ thi…. sắp tới.
Con nguyện noi gương sáng đức Thánh để tỏ rạng trí tâm chuyên cần sự học.
Nguyện xin ngài bồi hơi tiếp sức, gia lực hộ trì cho con Long Vân đạt hội, thẳng lối đường mây, công danh thỏa nguyện.
Con chẳng dám quên công ân trời bể nhà ngài. Con là người trần mắt thịt, con ăn chưa sạch, bạch chưa thông còn nhiều lầm lỗi xin xin được tha thứ, mở lối cho con đi. Độ cho con được tâm cầu sở nguyện, như ý sở cầu, kỳ thi đỗ đạt như ý muốn.
Con nam mô a di Đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
2. Văn khấn thi cử tại đền Ngọc Sơn
Văn khấn cầu thi cử đỗ đạt tại đền là bài văn khấn xin học hành thi cử giúp cho các sĩ tử củng cố thêm tinh thần để làm bài tốt hơn. Người xưa có câu: Có thờ có thiêng có kiêng có lành. Chính vì vậy bài văn khấn đi thi, bài khấn thi tốt sẽ giúp thí sinh vững tâm, từ đó làm bài tốt hơn.
Theo kinh nghiệm của một số nhà nghiên cứu tâm linh cho rằng đền Ngọc Sơn sẽ phù hợp hơn cho việc sĩ tử đến lễ trước khi diễn ra các kỳ thi. Tuy nhiên, trước khi đến đền Ngọc Sơn thì kể cả các bậc phụ huynh và các sĩ tử hãy nên lễ tại bàn thờ tổ tiên, nơi đình chùa, đền phủ… gần nhà trước đã.
Bài khấn thi cử tại Đền Ngọc Sơn như sau:
Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Kính nguyện Phật Thánh chứng tâm thiện thần bảo hộ.
Con là ….. – Sinh năm ……………….
Ngụ tại …………………………
Hôm nay là ngày:……tháng …. năm Giáp Thìn 2024.
Hữu duyên hữu ngộ Thánh đền Ngọc Sơn độ chỉ đường, mà hôm nay nhằm ngày…. tháng ……..năm ……, đệ tử được đem thân về hầu đê đầu bái yết cửa …….. linh từ.
Con nguyện noi gương sáng đức Thánh để tỏ rạng trí tâm chuyên cần sự học. Hữu sự con nguyện ngài khuông phù gia hộ – bật độ phù trì để con thi cử đổ đạt qua hai kỳ thi là:
– Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm ………….
– Và kỳ thi tuyển sinh vào trường đại học……
Nguyện xin ngài bồi hơi tiếp sức, gia lực hộ trì cho con Long Vân đạt hội, thẳng lối đường mây, công danh thỏa nguyện. Con chẳng dám quên công ân trời bể nhà ngài.
Nam mô A Di Đà Phật.
Xem thêm: Cách làm dồi bò chiên nướng thơm ngon cổ vũ Argentina đấu Canada Copa America 2024
Mục lục
3. Nên ăn gì trước khi thi?
- Các loại bánh teabreak sẽ giúp các thí sinh có năng lượng dồi dào mà không lo đau bụng. Ngoài ra sau khi thi xong các bạn có thể đặt tiệc teabreak ; đặt tiệc finger food hay đặt tiệc buffet để ăn mừng.
Xem thêm: Bài khấn cầu thi cử đỗ đạt tại Văn Miếu cho sĩ tử 2k6 thi tốt nghiệp – đại học năm 2024 bao đỗ
4. Vài nét về đền Ngọc Sơn
Đền Ngọc Sơn toạ lạc trên đảo Ngọc trong Hồ Hoàn Kiếm. Đền Ngọc Sơn là di tích văn hoá tín ngưỡng tôn giáo, nơi thờ Thánh Trần Hưng Đạo và Quan Vũ Đế cùng hai vị võ tướng được xếp vào hàng “Thánh” và cũng là nơi chứng kiến những buổi tập thuỷ chiến của quân đội Đại Việt. Lịch sử và huyền thoại được hoà quyện tạo thành không gian văn hoá lịch sử quanh Hồ Hoàn Kiếm. Ngay từ thời Lý, hồ đã soi bóng Tháp Báo Thiên, kiến trúc lừng danh một thời của đất Thăng Long. Những thế kỷ sau, đền Ngọc Sơn-Hồ Hoàn Kiếm lại chứng kiến những sự kiện lịch sử vẻ vang của nước nhà, nhất là cuộc đấu tranh giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc chiến đấu anh dũng để bảo vệ Thủ đô trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh Hồ Hoàn Kiếm đã làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của di tích đền Ngọc Sơn-Hồ Hoàn Kiếm.
Dẫn vào đền có hệ thống cổng và một cây cầu có tên là “Thê Húc” nối đảo Ngọc với bờ Đông của Hồ Hoàn Kiếm. Xưa kia, đảo Ngọc là nơi chúa Trịnh Giang cho xây cung Khánh Thuỵ đời Vĩnh Hựu (1735 – 1739) làm nơi yến ẩm, vui chơi ngày hè. Để làm đẹp thêm quang cảnh, chúa cho đắp hai gò núi Đào Tài và Ngọc Bội ở bên bờ phía đông.
Khi họ Trịnh suy vong, Lê Chiêu Thống được Nguyễn Huệ trao trả quyền hành, năm 1786 đã trả thù họ Trịnh bằng cách đốt trụi Phủ Chúa và cung Khánh Thụy. Đầu thế kỷ 19, một ngôi chùa dựng trên nền cung điện cũ ở đảo Ngọc nên gọi là Ngọc Sơn tự. Trước chùa có một lầu chuông khá cao. Năm 1843, hội Hướng thiện[1] quản lý đã chuyển chùa thờ Phật thành ra đền thờ Tam Thánh và đức thánh Trần Hưng Đạo. Sau đó lầu chuông bị phá bỏ. Năm 1864, nhà nho yêu nước là Phương Đình[2] Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra tu sửa lại toàn cảnh. Trong đền, ông đề cao việc thờ thần Văn Xương, vị sao chủ trông nom khoa cử theo tín ngưỡng Đạo giáo. Ông cho xây kè đá ở chân đảo, dựng đình Trấn Ba ngày trước đền và trông thẳng ra đảo Rùa.
Kiến trúc hiện nay của đền Ngọc Sơn về cơ bản vẫn giữ được quy mô, kiểu dáng từ thời Nguyễn Văn Siêu tu sửa. Từ ngoài vào, các công trình kiến trúc gồm: Nghi Môn ngoại, Tháp Bút, Nghi Môn nội, Đài Nghiên, cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt, đình Trấn Ba, nhà Tiền Tế, Trung đường, Hậu cung, Tả hữu vu, nhà Kính thư, nhà Hậu (phòng Rùa).
Nghi môn ngoại: được xây gạch dạng trụ biểu và những mảng tường lửng hợp thành. Hai bên mặt ngoài nghi môn có đắp nổi hai chữ Hán lớn được sơn màu đỏ là chữ Phúc và chữ Lộc với mong ước về điều Phúc (đông con nhiều cháu) và Lộc (nhiều của cải). Đây là hai đại tự do chính tay Nguyễn Văn Siêu đề bút. Ngắm hai đại tự này, chúng ta lại nhớ tới lời người xưa từng khắc trên bia đá: “Người làm điều thiện không gì quan trọng bằng ngăn lòng dục của mình, để bảo tồn lẽ phải của tự nhiên. Được như vậy thì chẳng cầu phúc, cầu lộc nhưng phúc lộc vẫn tự nhiên đến vậy”.
Tháp Bút: nằm ngay sau Nghi môn ngoại, được dựng trên ngọn núi đá cao 4m, đường kính 12m. Theo văn bia ghi lại thì gò đất này có tên là núi Độc Tôn để tưởng nhớ công ơn của các chiến sĩ tử vong thời vua Lê – chúa Trịnh[3]. Tháp hình vuông, thân chia làm năm tầng, đỉnh dựng hình tượng ngọn bút lông. Mặt Bắc của ba tầng dưới ghi 3 chữ Hán “Tả thanh thiên” nghĩa là “Viết lên trời xanh”. Tháp Bút là biểu tượng của tinh thần văn chương, dựng trên ngọn núi tưởng nhớ trận chiến của chúa Trịnh và quân sĩ, được Nguyễn Văn Siêu ca ngợi: Tháp nhờ núi mà cao thêm, núi nhờ tháp mà truyền mãi. Dưới chân núi Độc Tôn còn có miếu Sơn thần. Miếu rất nhỏ, chỉ như một am thờ nhưng rất linh thiêng, là tục thờ của người Việt, có núi, có miếu thờ thần núi. Trên vòm cửa miếu có 3 chữ Hán: Sơn thần miếu, hai bên có đôi câu đối:
Cố điện hồ sơn lưu vượng khí
Tân từ hương hỏa tiếp dư linh
Nghĩa là:
Điện cũ núi hồ lưu vượng khí
Đền mới hương hóa nối tiếp linh thiêng xưa.
Nghi môn nội: nằm kế tiếp sau Tháp Bút, cửa chính tạo bởi hai trụ, đỉnh trụ đặt tượng nghê ở tư thế chầu. Hai bên trụ nhỏ xây cửa nách giả, mái tạo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái có các đao cong. Tại cổng này, một bên đắp nổi hình chú hổ trắng và với chữ “Hổ Bảng” và bên kia là hình rồng cuộn đón đàn cá thi nhau vượt sóng với hai chữ “Long Môn” ở phía trên. Ở Long Môn, theo văn hóa phương Đông, có sự tích cá chép vượt vũ môn để chỉ sự đỗ đạt trong thi cử. Học trò thi đỗ được coi như là đã vượt Vũ Môn (Long Môn).
Còn chữ Hổ Bảng, nghĩa đen là bảng hổ, nghĩa bóng là bảng ghi tên những người đỗ tiến sĩ.
Đài Nghiên: Có Tháp Bút nên có Đài Nghiên. Nghiên được tạo từ một khối đá xanh hình trái đào cắt ngang theo chiều dọc, khoét lõm lòng chảo. Nghiên được đỡ bằng 3 con thiềm thừ[4] (con cóc). Đài Nghiên có niên đại cùng thời gian trùng tu đền năm 1865. Có ba con thiềm thừ (con cóc) đội Nghiên như cái chân kiềng. Đặc biệt, trên thân của Nghiên có khắc một bài minh do Nguyễn Văn Siêu soạn với 64 chữ Hán, được dịch là: “Xưa lấy hốc đất làm nghiên để chú giải Đạo đức kinh, đẽo nghiên đá để viết sách Hán Xuân Thu. Nghiên đá này há chẳng phải là biểu tượng đó sao! Từ đá tách ra làm nghiên, chẳng có hình dáng, không vuông, không tròn, dùng vào mọi việc thật kỳ diệu. Không cao, không thấp, ở chính giữa cúi nhìn mặt nước, ngửa trông ngọn bút đá. Ứng vào sao Thai mà làm ra mọi biến đổi. Ngậm nguyên khí mà mài hư không”…
Qua cổng Đài Nghiên là đến cầu Thê Húc dẫn vào trong đền.
Cầu Thê Húc: Thê Húc nghĩa là “Nơi đậu ánh nắng ban mai”. Tên cầu đã gợi lên bao điều thơ mộng. Cây cầu này ban đầu được tạo bởi những tấm ván gỗ đặt dọc theo mặt phẳng trên các hàng cột chôn dưới nước mà không có tay vịn. Sau này, qua những lần trùng tu đã làm mới kiểu hình cầu vồng, sơn đỏ hợp với cái tên “nơi đậu nắng ban mai”, làm thêm cả hai hàng lan can cho việc đi lại được an toàn và tạo dáng cho cây cầu. Lần tu sửa năm 1916 và sau năm 1954 thì cầu Thê Húc[5] có hình dáng uốn cong như hiện nay. Ba chữ Thê Húc kiều được viết sau năm 1884.
Qua cầu Thê Húc là lớp cổng thứ tư gọi là cổng Đắc nguyệt
Cổng Đắc Nguyệt: Đắc Nguyệt nghĩa là “Được trăng”, được làm trước năm 1884, có thể từ thời Nguyễn Văn Siêu. Cũng như tên cầu Thê Húc, cổng Đắc Nguyệt mang đậm tinh thần đạo giáo, tu tiên, theo cái tự nhiên. Đây là một kiến trúc xây bằng gạch khá vững chắc, kiểu 02 tầng 08 mái đao cong, trên tầng hai nhìn ra hồ cũng là nhìn về phía Đông, chính giữa phần cổ diêm trổ một cửa hình tròn, trên cửa có tấm biển khắc ba chữ Đắc Nguyệt lâu nghĩa là “Lầu được trăng”. Hai bên cổng có 02 cửa nách bề mặt bưng kín, trên đó đắp nổi 02 bức phù điêu, bên trái là đề tài Long Mã hà đồ, bên phải là Thần Quy lạc thư. Hà Đồ và Lạc Thư đều bàn về lẽ sinh thành của vũ trụ quần sinh, đều chủ trương lẽ Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể, và Nhất thể tán Vạn thù, Vạn thù qui Nhất thể, đều chủ trương vạn vật phát xuất từ một tâm điểm, phóng phát ra ngoài, rồi cuối cùng lại qui hướng về tâm điểm ấy. Tích về Long Mã hà đồ và Thần Quy lạc thư truyền từ thời vua Phục Hi của Trung Hoa cổ đại.
Qua cổng Đắc Nguyệt lầu dẫn vào khu kiến trúc chính của đền.
Đình Trấn Ba: Trấn ba nghĩa là Chắn sóng. Ngôi đình được làm phía trước đền chính để chắn những sóng gió, uế tạp từ hồ vào. Đình hướng Nam, kiến trúc được dựng trên 08 hàng cột bê tông giả gỗ, nền cao hơn mặt sân 45cm, xung quanh bó vỉa gạch. Mái kiểu chồng diêm 02 hai tầng 08 mái, các đầu đao được tạo áng cong vút thanh thoát.
Trước đây mái đình Trấn Ba được lợp bằng ngói ống, 04 cột cái làm bằng gỗ lim có kích thước lớn, 04 cột quân ở các góc tạo bằng chất liệu đá trắng hạt mịn. Trong lòng nhà dựng tấm bia lớn để ghi sự tích của đình. Năm 1947, bia đá và đình Trấn Ba bị chiến tranh phá huỷ, kiến trúc hiện còn đến nay là sản phẩm của lần trùng tu năm 1952.
Tiền tế: gồm 03 gian kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, dạng hai tầng bốn mái. Mặt trước mở hệ thống cửa bức bàn, phía trong thông với nhà Trung đường. Tại nhà Tiền tế có các bia đá gắn tường, bia sát cửa nách bên phải có vết đạn bắn trong chiến tranh. Tại đây còn có di vật quý là đôi hạc gỗ kiểu mình hạc, đầu vẹt có niên đại thế kỷ 18. Phía trên có các bức hoành phi được làm vào thời Nguyễn, hoành phi chính giữa là: Hồi thiên độ thế (nghĩa là: Xoay trời cứu thế) có niên đại thời vua Thành Thái nhà Nguyễn. Đặc biệt có bức hoành phi: Phồn hi vĩnh tích (Ban phúc dài lâu) ghi niên đại Trung Hoa dan quốc Cường ngữ đan át, nghĩa là Năm Đinh Mão thời Trung Hoa dân quốc. Cách ghi niên đại ở đây cũng rất đặc biệt, là cách ghi theo lối cổ của sách Nhĩ Nhã, Cường ngữ ứng với chữ Đinh, Đan át là Mão-Cường ngữ Đan át nghĩa là Đinh Mão. Đây có lẽ là hoành phi do những người Hoa công đức nên họ đã ghi lạc khoản về niên đại như vậy.
Trung đường: Đây là nơi đặt ban thờ 3 vị Quan Công (chủ về võ nghệ), Lã Dộng Tân (chủ về nghề thuốc) và Văn Xương Đế Quân (chủ về học hành, thi cử). Các sĩ tử đi thi theo truyền thống thì nên đến đền Ngọc Sơn cầu khấn Văn Xương Đế Quân. Nhà Trung đường rộng lòng, nền cao hơn so với nhà Tiền tế 40cm. Hệ thống cửa bức bàn 03 gian được chạm trổ trang trí cầu kỳ các hình chữ thọ, dơi, rồng, phượng, “Long Mã chở hà đồ”, “Rùa đội lạc thư”. Gian giữa đặt hương án, sập thờ để bày đồ tự khí và bài trí các tượng thờ. Hai gian bên sát tường hậu treo chuông và khánh đồng. Sát tường hồi đặt hai ban thờ “Tiền Hậu công đức tả ban liệt vị” (ban bên trái) và “Tiền Hậu công đức hữu ban liệt vị” (ban bên phải). Tại đây treo nhiều bức hoành phi, câu đối có neien đại thời Nguyễn, trong đó có những câu đối ca ngợi cảnh đền và hồ, có những câu đối lại mang hàm nghĩa răn dạy con người như:
Thiên hà ngôn tai, hiển đạo phi quan ngã bốc
Thần nhất giả dã, âm chất chỉ tại Trung kinh
Nghĩa là:
Trời có nói gì đâu, cái đạo vẫn cứ hiển hiện, không liên quan gì đến việc bói toán của ta.
Thần chỉ một vậy, âm chất là ở chỗ Trung kinh (Trung kinh – chỉ Kinh Xuân thu)
Nối toà Trung đường với Hậu cung là một nếp nhà cầu được tạo kiểu 02 tầng mái, ngăn cách giữa mái thượng và mái hạ là hàng trấn song con tiện có tác dụng vừa tạo ánh sáng tự nhiên cho kiến trúc vừa có giá trị trang trí làm giảm nhẹ sự thô cứng nặng nề của toà kiến trúc.
Hậu cung: Đây là nơi đặt tượng thờ đức thánh Trần Hưng Đạo, người có công lớn trong 3 lần chống quân Nguyên Mông thời nhà Trần, được nhân dân phong Thánh và thờ tự ở rất nhiều nơi. Hậu cung có nền cao nhất trong số các tòa thờ tự tại đây. Trước cửa Hậu cung mở hệ thống cửa gỗ kiểu bức bàn, cửa giữa trang trí hoa văn, hai cửa bên làm kiểu “thượng song-hạ bản”. Các câu đối ca ngợi đức thánh Trần như:
Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ
Nghĩa là:
Gươm báu ngàn vàng ẩn dưới làn nước mùa thu
Một tấm lòng trong nơi bình ngọc
Xem thêm: Văn khấn gia tiên xin thi cử đỗ đạt tại nhà trước kì thi tốt nghiệp THPT năm 2024
Vậy là quý khách đã nắm được bài khấn thi cử đỗ đạt tại đền Ngọc Sơn rồi. Để đặt lịch vui lòng inbox fanapge Circel Food.